Thuốc vitamin

Hiển thị 1–12 của 18 kết quả

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ vitamin và khoáng chất mỗi ngày, nhưng nếu thiếu chúng sẽ làm giảm sức đề kháng, khiến cơ thể dễ nhiễm bệnh. Nếu cơ thể nhận được đầy đủ các vitamin và khoáng chất thì khả năng miễn dịch sẽ tăng lên và bệnh tật không “hỏi thăm”.

Tầm quan trọng của vi chất dinh dưỡng

  • Vi chất dinh dưỡng bao gồm các vitamin (A, B, C, D, E….) và các vi khoáng (sắt, kẽm, đồng, selen…). Thiếu vi chất dinh dưỡng sẽ dễ mắc các bệnh như: thiếu vitamin A dẫn tới bệnh khô mắt, thiếu vitamin B1 gây tê phù, thiếu vitamin D, canxi gây xốp xương, loãng xương.
  • Gần đây, một số nghiên cứu còn cho thấy thiếu vitamin D làm tăng nguy cơ gây bệnh tiểu đường, ung thư. Vitamin C là một thành tố tham gia vào tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Bên cạnh đó, khi cơ thể thiếu sắt sẽ dẫn tới bệnh thiếu máu, thiếu iod gây bướu cổ.
  • Vitamin và khoáng chất thường có trong các loại thực phẩm như rau xanh, quả chín, ngoài ra vitamin còn có trong phủ tạng động vật, các chất vi khoáng có nhiều trong thức ăn có nguồn gốc động vật.
  • Có nhiều lý do khiến cơ thể không được cung cấp đầy đủ các loại vitamin và chất khoáng như chế độ ăn không cân bằng, có vấn đề về sức khỏe, bị bệnh, hay ăn chay.
  • Khi cơ thể không nhận được đủ các loại vitamin và khoáng chất cần thiết thì việc bổ sung vitamin nhằm cân bằng lại sự thiếu hụt này là rất cần thiết, giúp cơ thể khỏe mạnh, phòng ngừa bệnh tật.

Bao nhiêu vitamin là đủ?

  • Theo các chuyên gia, vi chất dinh dưỡng phải đáp ứng theo nhóm tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe. Ví dụ nam giới trẻ, làm các công việc vận động nhiều, cần bổ sung các vitamin, khoáng chất và protein nhiều hơn những người như phụ nữ hay người cao tuổi. Người cao tuổi khả năng hấp thu kém, cần lưu ý bổ sung vitamin đặc biệt là canxi.
  • Theo khuyến cáo của các chuyên gia dinh dưỡng nhu cầu khuyến nghị về canxi (mg/ngày) theo tuổi, giới và tình trạng sinh lý cho người Việt Nam như sau: nhu cầu canxi ở trẻ từ 6-11 tháng là 400 mg/ngày; trẻ em 1-2 tuổi là 500 mg/ ngày; 3-5 tuổi là 600 mg/ngày; 6-7 tuổi là 650 mg/ngày; 8-9 tuổi là 700 mg/ngày; 10-19 tuổi và người ≥ 70 tuổi là 1000 mg/ngày; người trưởng thành 20-49 tuổi và nam giới 50-69 tuổi là 800 mg/ngày; nữ giới 50-69 tuổi là 900 mg/ngày; phụ nữ có thai là 1200 mg/ngày và phụ nữ cho con bú là 1300 mg/ngày.
  • Vitamin và khoáng chất có trong nhiều loại rau xanh quả chín. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), người trưởng thành trung bình nên ăn 400g rau xanh, quả chín mỗi ngày. Tùy vào sở thích của từng người, nên ăn từ 100-300g quả chín mỗi ngày để cung cấp vitamin C, E, A, beta caroten. … cho cơ thể.
  • Nếu chế độ ăn nghèo nàn và phải lao động làm việc với cường độ cao, hoặc là đối tượng có nguy cơ thiếu vi chất thì cần được bổ sung hỗn hợp vitamin tổng hợp theo nhu cầu của cơ thể, và hãy hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng.

Nên sử dụng vitamin và khoáng chất khi nào?

  • Chỉ sử dụng khi chế độ ăn thường xuyên không đầy đủ, ăn uống thiên lệch (không ăn rau hoặc ăn quá ít, thường ăn thức ăn công nghiệp như mì gói, bánh kẹo, khoai tây chiên…). Người bệnh ăn uống không được, ăn quá ít; trẻ nhỏ biếng ăn (ví dụ một ngày cần phải ăn 100g thịt, 100g gạo, 200g trái cây, 500ml sữa… nhưng trẻ ăn quá ít nên lượng vitamin và khoáng chất bị thiếu).
  • Hoặc những người làm việc quá căng thẳng, vận động quá nhiều, tiêu hao năng lượng lớn như vận động viên; phụ nữ mang thai có nhu cầu axit folic, canxi, sắt… tăng vọt cần phải bổ sung mà nhu cầu ăn uống thông thường không thể bổ sung đủ.

Trẻ em uống hằng ngày, lâu dài có khi nào không tốt cho cơ thể?

Vitamin có hai dạng: dạng thuốc và dạng vi chất bổ sung vào thực phẩm. Ví dụ như đường bổ sung vitamin A, muối bổ sung iôt, bột mì bổ sung axit folic, sữa bổ sung nhiều loại vitamin A, B, C, D… Trong hai dạng bổ sung này, dạng vi chất bổ sung vào thực phẩm an toàn hơn thuốc vì nguyên tắc bổ sung phải theo nhu cầu sinh lý hằng ngày của cơ thể. Do đó độ an toàn cao, có thể dùng thông thường và lâu dài mà không hề gây hại. Với thuốc thì có thể sản xuất theo liều lượng cao. Ví dụ nhu cầu một ngày chỉ cần 1.000 đơn vị vitamin A, nhưng thuốc có thể có hàm lượng tới 200.000 đơn vị.

Tự mua thuốc bổ vitamin cho mình và con cái uống cho khỏe có được không?

  • Khi sử dụng các loại vitamin liều cao phải có toa bác sĩ. Nếu cần thiết phải mua thì chỉ nên mua loại đa sinh tố khoáng chất. Khi mệt mỏi, làm việc căng thẳng… uống một viên bổ sủi bọt thì chỉ có tác dụng hỗ trợ tâm lý (làm người ta yên tâm) chứ không hẳn là cần thiết. Song dù chỉ hiệu quả về mặt tâm lý thì trong cuộc sống nhiều khi con người cũng rất cần điều đó.
  • Hầu hết vitamin đều khó gây ngộ độc. Nếu cơ thể thiếu nhiều vitamin thì khi uống cơ thể sẽ hấp thụ nhiều, thiếu ít hấp thụ ít. Nếu mình cho ít thì tỉ lệ hấp thụ nhiều, mà cho số lượng nhiều thì tỉ lệ hấp thụ ít và thải ra. Tuy nhiên, cũng nên lưu ý nếu cho trẻ sử dụng nhiều
  • Vitamin D thì có thể dẫn đến táo bón cho trẻ. Vitamin A và D nếu dùng liều quá cao (hàng triệu đơn vị) có thể gây ngộ độc cấp tính, tuy nhiên cũng rất hiếm xảy ra. Về nguyên tắc những vitamin tan trong dầu mỡ như A, D, E, K thì có thể gây ngộ độc vì khi sử dụng dồn dập quá nó sẽ thải không kịp, thải khó, dễ tích lũy ở gan gây hại gan và thường chỉ có A và D có liều cao, còn hai loại kia ít khi có liều cao. Vitamin C uống nhiều có thể gây sỏi thận vì nó tạo ra những chất muối khoáng không hòa tan…

Những loại thực phẩm nào cung cấp vitamin gì?

  • Vitamin A thực thụ chỉ có trong thức ăn động vật: trong gan các loại động vật như cá, heo, bò, gà…, trong chất béo của sữa, lòng đỏ trứng, những loại rau trái màu vàng, cam đậm.Vitamin C có trong các loại trái cây tươi, đặc biệt có nhiều trong bưởi, cam, chanh. Tuy nhiên vitamin trong rau củ quả thường bị mất trong quá trình chế biến, nên ăn sống tốt hơn. Axit folic có trong thận, gan, những loại rau có lá to.
  • Vitamin B1 có trong các loại ngũ cốc, các loại thịt. Vitamin E có nhiều trong những loại thực phẩm chứa nhiều chất béo như đậu phộng, mè, lòng đỏ trứng, trong mầm lúa, mầm đậu đỗ, giá sống…