Nội dung bài viết
Bệnh Alzheimer là bệnh khiến con người sa sút trí tuệ, ảnh hưởng đến hành vi và trí nhớ. Bệnh Alzheimer không chỉ ảnh hưởng đến với người bệnh mà người chăm sóc cho bệnh nhân cũng có nguy cơ bị tác động, rất dễ dẫn đến tình trạng căng thẳng hoặc trầm cảm. Vậy Alzheimer là bệnh gì? Nguyên nhân và phòng ngừa bệnh alzheimer như thế nào? Thuốc điều trị alzheimer là gì? Khám phá bài viết ngay.
Bệnh Alzheimer là loại bệnh làm sa sút trí tuệ, mất trí nhớ, chức năng nhận thức giảm rõ rệt, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Tùy vào giai đoạn bệnh, triệu chứng của bệnh Alzheimer rất đa dạng.
Ban đầu là chứng rối loạn về ngôn ngữ, hay quên, khả năng tính toán giảm, đi đường có thể bị lạc,…Kế tiếp là những biểu hiện nặng như hoang tưởng, rối loạn hành vi, thậm chí trầm cảm,… Cuối cùng người bệnh sẽ mất dần khả năng nhận thức cũng như những chức năng quan trọng: không còn tự ăn uống, tiểu tiện, dẫn đến tử vong do suy kiệt, bệnh lý nhiễm trùng hay tai nạn.
Tùy vào thời điểm phát bệnh, thời gian sống trung bình của bệnh Alzheimer kéo dài khoảng 5-15 năm.
Từ 1906 đến nay, số lượng bệnh Alzheimer ngày càng nhiều, đặc biệt khi tuổi thọ của con người càng gia tăng. Số liệu thống kê vào năm 2015 của The World Alzheimer Report 2015, số ca bệnh sa sút trí tuệ 3 ca/1 giây. Hiện nay, có khoảng 46,8 triệu người bị giảm trí tuệ, trong đó có khoảng 60% nguyên nhân từ bệnh Alzheimer. Tỉ lệ mắc bệnh Alzheimer tăng theo độ tuổi, người dưới 75 tuổi chiếm 5% lên đến 40-50% của người 85 tuổi trở lên.
Việt Nam cũng không ngoại lệ, tỉ lệ sa sút trí tuệ thống kê được khoảng 5% dân số 60 tuổi trở lên và ngày càng tăng dần. Để điều trị bệnh Alzheimer cần phải có một khoảng ngân sách khổng lồ đồng thời bệnh nhân và người thân cũng chịu một gánh nặng tinh thần cũng như thể chất không nhỏ.
Nhiều giả thuyết cho rằng, những bất thường chức năng của protein trong não làm cản trở hoạt động của các tế bào thần kinh, từ đó làm tổn thương tế bào, cuối cùng là tế bào thần kinh chết đi.
Các nhà khoa học cho rằng có 2 loại protein được xem là nguyên nhân chính gây ra bệnh Alzheimer, đó chính là:
Là một căn bệnh xảy ra rộng rãi, bệnh Alzheimer thường thấy ở những người có tuổi thọ cao. Những người bị rối loạn não từ bẩm sinh hoặc bị chấn thương cũng có nguy cơ bị bệnh. Ngoài ra, hiện nay giới trẻ cũng bị đe dọa bởi bệnh Alzheimer.
Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer như:
Người nhà cần đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế nếu có xuất hiện những biểu hiện trên để được xử lý kịp thời và có phương pháp điều trị phù hợp, tránh những tình huống xấu xảy ra.
Hội chứng bệnh Alzheimer gây ra tình trạng mất trí nhớ và rối loạn ngôn ngữ, mất khả năng phán đoán gây khó khăn trong việc điều trị những bệnh lý khác. Người mắc bệnh Alzheimer có thể xuất hiện:
Khi bệnh đến giai đoạn cuối, não thay đổi ảnh hưởng đến các chức năng thể chất, như nuốt, không kiểm soát hành vi… Đa phần, những bệnh nhân không tử vong do bệnh Alzheimer gây ra mà thường từ các bệnh kèm theo như:
Để phát hiện suy giảm chức năng nhận thức người ta thường dùng các test tầm soát như MMSE, Mini-Cog và MoCA được dùng phổ biến.
Với thang điểm MMSE, điểm cắt chẩn đoán SSTT là 26. Bên cạnh việc biểu hiện lâm sàng, có thể chẩn đoán giai đoạn bệnh theo thang điểm MMSE (theo NICE 2011):
Các test đánh giá chuyên biệt thường được dùng để đánh giá chi tiết từng chức năng nhận thức như ngôn ngữ, trí nhớ, chức năng điều hành, thị giác cấu trúc, chú ý tập trung.
Các thang đánh giá hoạt động sống cơ bản là ADL- Activity of Daily Living và nâng cao là IADL- Instrumental Activity of Daily Living. Chúng thường được sử dụng để đánh giá chức năng nhận thức lên hoạt động hàng ngày của người bệnh.
Có hơn 80% người mắc bệnh Alzheimer có biểu hiện rối loạn tâm thần như ảo giác, trầm cảm, hoang tưởng, lãnh đạm, kích động.
Thang điểm đánh giá trầm cảm người già là GDS (Geriatric Depression Scale) có khả năng tầm soát khả năng bệnh nhân bị trầm cảm.
Một bộ đánh giá trạng thái tâm thần kinh rõ rệt và có giá trị thường được sử dụng trong các nghiên cứu là bộ NPI (Neuropsychiatric Inventory) và bộ câu hỏi thu gọn NPI-Q (Neuropsychiatric Inventory Questionnaire) thường được dùng trên lâm sàng.
Thuốc kháng men cholinesterase
Hiệu quả của các thuốc ức chế men cholinesterase (ChEIs) trong điều trị Alzheimer giai đoạn nhẹ đến trung bình đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên. Do đó, ChEIs là thuốc được đề nghị sử dụng khi có chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, thuốc chỉ có tác dụng làm chậm quá trình phát triển của bệnh và hiệu quả đạt càng cao khi bệnh được chữa trị sớm.
Các thuốc ức chế men cholinesterase và liều lượng khi dùng:
Thuốc Donepezil
Thuốc Rivastigmine:
Cần chú ý tác dụng phụ của nhóm thuốc kháng men nay khi điều trị có thể xuất hiện tình trạng nôn ói, mệt mỏi, tiêu chảy, và chậm nhịp tim.
Memantine
Memantine là một chất có áp lực trung bình với thụ thể NMDA, có khả năng điều hòa dẫn truyền thần kinh. Hiện nay, memantine được FDA cho phép điều trị Alzheimer giai đoạn trung bình đến nặng. Liều dùng 10mg mỗi ngày 2 lần.
Ginkobiloba (EGb761)
Ginkobiloba (EGb761) có thể giúp cải thiện chức năng nhận thức, hành vi tâm thần và hoạt động sống hàng ngày trên bệnh nhân Alzheimer. Ginkobiloba đã được World Federation of Societies of Biological Psychiatry (WFSBP) đưa vào trong điều trị bệnh Alzheimer vào năm 2011. Liều khuyến khích của Ginkobiloba là 240mg/ngày.
Những thuốc điều trị suy giảm nhận thức khác
Các thuốc statin, kháng viêm non-steroid và liệu pháp estrogen có thể dùng để điều trị bệnh Alzheimer nhưng không ghi nhận hiệu quả rõ rệt và kèm nhiều tác dụng phụ.
>> Ebixa 10mg – Điều trị chứng mất trí vừa đến nặng ở người lớn mắc bệnh Alzheimer
Điều trị rối loạn hành vi tâm thần (HVTT) Alzheimer
Việc xử trí rối loạn HVTT nên bắt đầu bằng biện pháp không dùng thuốc (luyện tập, giáo dục, xoa bóp dầu thơm trị liệu, kích thích cảm giác, âm nhạc theo từng người) vì các triệu chứng có thể giảm dần tự nhiên trong một khoảng thời gian ngắn.
Các thuốc chống loạn thần nhóm cổ điển và nhóm mới đều có thể làm giảm rối loạn HVTT, đặc biệt là Risperidone có tác dụng tốt trong kích động/hung hăng và rối loạn tâm thần nhưng nguy cơ đột quỵ tăng, tỷ lệ tử vong tăng, hội chứng Parkinson và suy giảm nhận thức. Chúng nên dùng ở liều thấp và trong thời gian ngắn ở những người trung bình đến nặng.
Các thuốc phòng chống trầm cảm ví dụ như các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs), có khả năng giúp ích trong việc sa sút trí tuệ nhưng không có các tác dụng kháng cholinergic có hại của các thuốc chống trầm cảm.
Để hạn chế diễn biến nguy hiểm của bệnh Alzheimer, cần giữ những thói quen sinh hoạt như: thay đổi không gian sống, ăn nhiều rau xanh và trái cây; tìm người hỗ trợ và chăm sóc; nghĩ tích cực về bệnh; tích cực tham gia các hoạt động xã hội, rèn luyện về thể chất và tinh thần.
Bệnh Alzheimer diễn ra âm thầm khiến bệnh nhân không thể nhận thức được những suy nghĩ cũng như những hành động của mình. Người thân cần thấu hiểu, thông cảm, chăm sóc để họ không cảm thấy cô đơn và giúp bệnh tình được cải thiện hơn.
Cập nhật: 01 ngày trước
© 2018. Hệ thống chuỗi Nhà Thuốc An Tâm.
Địa chỉ 1: 05 Quang Trung, Phường Hiệp Phú, Tp Thủ Đức (Quận 9), TP.Hồ Chí Minh.
Địa chỉ 2: 42 Nguyễn Huy Lượng, Phường 14, Quận Bình Thạnh, TP.Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0937542233.
Email: lienhe@nhathuocantam.org
Lưu ý: Nội dung trên Nhà Thuốc An Tâm chỉ mang tính chất tham khảo. Hãy tham khảo ý kiến của bác sỹ không tự ý sử dụng thuốc khi không có chỉ định của bác sỹ.